On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery.
And on that occasion the bhikkhuni Khema, wandering on tour among the Kosalans, had taken up residence between Savatthi and Saketa at Toranavatthu.
Then King Pasenadi Kosala, while traveling from Saketa to Savatthi, took up a one-night residence between Savatthia and Saketa at Toranavatthu. Then he addressed a certain man:
- "Come, now, my good man. Find out if in Toranavatthu there's the sort of brahman or contemplative I might visit today."




Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthapindika.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo-ni Khemà đang đi du hành giữa dân chúng Kosala và trú ở tại Toranavatthu, giữa Sàvatthi và Sàketà.
Vua Pasenadi nước Kosala cũng đang đi từ Sàketa đến Sàvatthi và trú một đêm ở Toranavatthu, giữa Sàketa và Sàvatthi. Rồi vua Pasenadi nước Kosala gọi một người và nói:
-" Hăy đến, này Người kia. Ông có biết vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào ở tại Toranavatthu để hôm nay ta có thể đến yết kiến vị ấy?"

 

"As you say, sire," the man replied to the king, but having roamed all over Toranavatthu he did not see the sort of brahman or contemplative the king might visit. But he did see the bhikkhuni Khema residing in Toranavatthu. On seeing her, he went to King Pasenadi Kosala and on arrival said to him, "Sire, in Toranavatthu there is no brahman or contemplative of the sort your majesty might visit. But there is, however, a bhikkhuni named Khema, a disciple of the Blessed One, worthy and rightly self-awakened. And of this lady, this admirable report has spread about: 'She is wise, competent, intelligent, learned, a fluent speaker, admirable in her ingenuity.' Let your majesty visit her."



- Thưa vâng, tâu Đại vương.
Người ấy vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, đi t́m khắp Toranavatthu không thấy có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để vua Pasenadi nước Kosala có thể đến yết kiến.
Rồi người ấy thấy Tỷ-kheo-ni Khemà đến trú ở Toranavatthu; sau khi thấy, người ấy đi đến vua Pasenadi nước Kosala và thưa:
- Tâu Đại vương, tại Toranavatthu không có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để Đại vương có thể yết kiến. Nhưng tâu Đại vương, có Tỷ-kheo-ni Khemà là đệ tử của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về bậc nữ Tôn giả ấy: "Nữ Tôn giả là bậc hiền trí, thông minh, có trí, nghe nhiều, lời nói đến tâm, ứng đáp lanh lợi". Đại vương có thể đến yết kiến vị ấy.

 

Then King Pasenadi Kosala went to the bhikkhuni Khema and, on arrival, having bowed down to her, sat to one side. As he was sitting there he said to her, "Now then, lady, does the Tathagata exist after death?"



Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Tỷ-kheo-ni Khemà; sau khi đến, đảnh lễ vị ấy rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala thưa với Tỷ-kheo-ni Khemà:
- Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?

 

"That, great king, has not been declared by the Blessed One: 'The Tathagata exists after death.'"



- Tâu Đại vương, Thế Tôn không trả lời: "Như Lai có tồn tại sau khi chết".

 

"Well then, lady, does the Tathagata not exist after death?"



Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai không tồn tại sau khi chết?

 

"Great king, that too has not been declared by the Blessed One: 'The Tathagata does not exist after death.'"



- Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết".

 

"Then does the Tathagata both exist and not exist after death?"



Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?

 

"That has not been declared by the Blessed One: 'The Tathagata both exists and does not exist after death.'"



- Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết".

 

"Well then, does the Tathagata neither exist nor not exist after death?"



Thế là, thưa Nữ Tôn giả, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?

 

"That too has not been declared by the Blessed One: 'The Tathagata neither exists nor does not exist after death.'"



- Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".

 

"Now, lady, when asked if the Tathagata exists after death, you say, 'That has not been declared by the Blessed One: "The Tathagata exists after death."' When asked if the Tathagata does not exist after death... both exists and does not exist after death... neither exists nor does not exist after death, you say, 'That too has not been declared by the Blessed One: "The Tathagata neither exists nor does not exist after death."' Now, what is the cause, what is the reason, why that has not been declared by the Blessed One?"



Được hỏi: "Thưa Nữ Tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?", Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Đại vương, Thế Tôn không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại sau khi chết"". Được hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết không?", Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không có tồn tại sau khi chết"". Được hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?", Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết"". Được hỏi: "Thế là, thưa Nữ Tôn giả, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?", Nữ Tôn giả trả lời: "Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết"". Thưa Nữ Tôn giả, do nhân ǵ, do duyên ǵ, Thế Tôn lại không trả lời?

 

"Very well, then, great king, I will question you in return about this very same matter. Answer as you see fit. What do you think great king: Do you have an accountant or actuary or mathematician who can count the grains of sand in the river Ganges as 'so many grains of sand' or 'so many hundreds of grains of sand' or 'so many thousands of grains of sand' or 'so many hundreds of thousands of grains of sand'?"



- Vậy thưa Đại vương, ở đây, tôi sẽ hỏi Đại vương. Đại vương kham nhẫn như thế nào, hăy trả lời như vậy. Đại vương nghĩ thế nào, thưa Đại vương, Đại vương có người kế toán nào, chưởng ấn nào (muddiko), toán số nào có thể đếm được cát sông Hằng có số hột cát như vậy, có số trăm hột cát như vậy, có số ngàn hột cát như vậy, có số trăm ngàn hột cát như vậy?

"No, lady."



- Thưa không, thưa Nữ Tôn giả.

 

"Then do you have an accountant or calculator or mathematician who can count the water in the great ocean as 'so many buckets of water' or 'so many hundreds of buckets of water' or 'so many thousands of buckets of water' or 'so many hundreds of thousands of buckets of water'?"



Đại vương có người kế toán nào, có người chưởng ấn nào, có người toán số nào có thể đong lường được nước của biển lớn có số đấu nước như vậy, có số trăm đấu nước như vậy, có số ngàn đấu nước như vậy, có số trăm ngàn đấu nước như vậy?

 

"No, lady. Why is that? The great ocean is deep, boundless, hard to fathom."



- Thưa không, thưa Nữ Tôn giả. - V́ sao? - "Thưa Nữ Tôn giả, v́ rằng biển lớn thâm sâu, vô lường, khó ḍ đến đáy."

 

"Even so, great king, any physical form by which one describing the Tathagata would describe him: That the Tathagata has abandoned, its root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. Freed from the classification of form, great king, the Tathagata is deep, boundless, hard to fathom, like the ocean. 'The Tathagata exists after death' doesn't apply. 'The Tathagata doesn't exist after death doesn't apply. 'The Tathagata both exists and doesn't exist after death' doesn't apply. 'The Tathagata neither exists nor doesn't exist after death' doesn't apply.



Cũng vậy, thưa Đại vương, nếu có người muốn định nghĩa Như Lai ngang qua sắc thân (rupeena), nhưng sắc thân ấy, Như Lai đă đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của sắc thân. Thưa Đại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết", không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.

 

"Even so, great king, any feeling... Any perception... Any mental fabrication...



Nếu có người muốn định nghĩa Như Lai qua các cảm thọ... qua các tưởng... qua các hành..

 

"Any consciousness by which one describing the Tathagata would describe him: That the Tathagata has abandoned, its root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. Freed from the classification of consciousness, great king, the Tathagata is deep, boundless, hard to fathom, like the ocean. 'The Tathagata exists after death' doesn't apply. 'The Tathagata doesn't exist after death doesn't apply. 'The Tathagata both exists and doesn't exist after death' doesn't apply. 'The Tathagata neither exists nor doesn't exist after death' doesn't apply." 1



Nếu có người muốn định nghĩa Như Lai qua các thức; nhưng thức ấy, Như Lai đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai; được giải thoát khỏi sự ước lượng của thức. Thưa Đại vương, Như Lai là thâm sâu, vô lường, không thể đến tận đáy, như biển lớn. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại sau khi chết", không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận. Nói rằng: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", cũng không thể chấp nhận.

 

Then King Pasenadi Kosala, delighting in & approving of the bhikkhuni Khema's words, got up from his seat, bowed down to her and — keeping her to his right — departed.



Rồi vua Pasanadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời của Tỷ-kheo-ni Khemà, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Khemà, thân phía hữu hướng về Nữ Tôn giả rồi ra đi.

 

Then at another time he went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to the Blessed One, sat to one side. As he was sitting there [he asked the Blessed One the same questions he had asked the bhikkhuni Khema, and received precisely the same responses and analogies. Then he exclaimed:]



Rồi vua Pasenadi nước Kosala, sau một thời gian, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:[ Đức vua lập lại những câu hỏi với Đức Phật như đă từng hỏi Tỷ-kheo-ni Khemà và được Đức Phật trả lời tương tự như Tỷ-kheo-ni Khemà . Đức vua hoan hy la to:]

 

"Amazing, lord! Astounding! How the meaning and phrasing of the teacher and disciple agree, coincide, and do not diverge from one another with regard to the supreme teaching! Recently, lord, I went to the bhikkhuni Khema and, on arrival, asked her about this matter, and she answered me with the same words, the same phrasing, as the Blessed One. Amazing, lord! Astounding! How the meaning and phrasing of the teacher and disciple agree, coincide, and do not diverge from one another with regard to the supreme teaching!



Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! V́ rằng giữa Đạo sư với nữ đệ tử, ư nghĩa với ư nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương ḥa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.Một thời, bạch Thế Tôn, con đi đến Tỷ-kheo-ni Khemà và hỏi về ư nghĩa này. Nữ Tôn giả ấy đă trả lời cho con về ư nghĩa này với những câu này, với những lời này, giống như Thế Tôn. Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! V́ rằng giữa Đạo sư với nữ đệ tử, ư nghĩa với ư nghĩa, văn ngôn với văn ngôn có sự tương đồng, có sự tương ḥa, không có sự mâu thuẫn, tức là tối thượng văn cú.

 

"Now, lord, we must go. Many are our duties, many our responsibilities."



- Bạch Thế Tôn, nay con phải đi, con có nhiều công vụ, nhiều việc phải làm.

 

"Then do, great king, what you think it is now time to do."



- Thưa Đại vương, nay Đại vương hăy làm những ǵ Đại vương nghĩ là hợp thời.

 

So King Pasenadi Kosala, delighting in and approving of the Blessed One's words, got up from his seat, bowed down to the Blessed One and — keeping him to his right — departed.



Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn nói, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

 

Note

1. The Commentary and Sub-commentary are not satisfied to let this passage stand, and try to describe the Tathagata's indescribability. To paraphrase: He is freed from the classification of form, etc., because for him there will be no arising of form, etc., in the future (i.e., after death). He is deep in the depth of his character and the depth of his qualities. As for any description in terms of 'a being' that might be used in relation to the Tathagata with such deep qualities, when one sees the non-existence of the description 'being,' owing to the (future) non-existence of the aggregates, one sees that the four statements with regard to the Tathagata after death are invalid.

This explanation, which borrows from Sister Vajira's verse in SN 5.10, misses an important point raised in SN 22.36 and SN 23.2. In SN 22.36 the Buddha states that one is measured and classified by what one is obsessed with. If one is not obsessed with anything, then one is not measured or classified by it in the here and now. In SN 23.2 the Buddha points out that the term "being" applies only where there is craving and passion. The Tathagata, freed from craving and passion, is thus indescribable in the present, even though he obviously still functions in the present. SN 22.86 elaborates on this point in great detail.

Another problem raised by the Commentary's explanation for this sutta is how it would define the Tathagata's qualities and character, for what are they composed of aside from aggregates?

See also: MN 63; MN 72; other suttas in the Avyakata Samyutta; the translator's Introduction to this samyutta; AN 4.42.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |